a. khái niệm:
Phương thức giao dịch qua trung gian là phương thức giao dịch trong đó hai bên mua và bán phải thông qua người thứ 3 để ký kết và thực hiện hợp đồng.
b. Phương thức này bao gồm:
1. Môi giới: Là loại trung gian đơn thuần giữa bên mua và bên bán.
Đặc điểm: người môi giới không đại diện cho quyền lợi bên nào mà chỉ đứng giữa, không chịu trách nhiệm pháp lý, họ chỉ tìm người mua, người bán và tạo điều kiện hai bên gặp nhau, tự đàm phán và ký kết hợp đồng. Người môi giới có quyền nhận thù lao của cả hai bên quan hệ giữa người môi giới với các bên không phải là quan hệ hợp đồng dài hạn.
Môi giới thương mại được quy định trong chương V mục 2 từ điều 150 đến điều 154 luật thương mại Việt Nam.
2. Uỷ thác mua bán hàng hoá.
Đây là phương thức trong đó người uỷ thác giao cho người nhận uỷ thác mua hoặc bán một loại hàng hoá nào đó nhân danh người uỷ thác.
Đặc điểm của loại giao dịch này:
+ Hàng hoá phải là hàng hoá được phép lưu thông.
+ Người nhận uỷ thác phải có khả năng và tự mình thực hiện được công việc.
+ Người nhận uỷ thác chỉ được nhận uỷ thác trong phạm vi ngành nghề được phép kinh doanh.
Loại hình kinh doanh này được quy định trong (chương V mục 3 từ điều 155 đến điều 165 Luật Thương Mại Việt Nam 2005).
3. Đại lý mua bán hàng hóa (Agent)
Là người hoạt động nhân danh mình với chi phí của người uỷ thác để ký kết và thực hiện hợp đồng. Nói cách khác đại lý là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác (Principal). Quan hệ giữa người uỷ thác với đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý.
- Đặc điểm của hoạt động đại lý. (Chương V Mục 4, từ điều 166 đến 177 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005).
+ Người đại lý chỉ đại diện quyền lợi cho một bên – bên uỷ thác.
+ Người đại lý không được nhận thù lao của cả hai bên, nếu nhận của cả hai bên mà bị phát giác thì người đại lý đó có thể bị phạt, vì làm như vậy thì quyền lợi của cả bên (bán và mua) dễ bị vi phạm.
+ Người làm đại lý thường có hợp đồng dài hạn với người uỷ thác.
- Phân loại đại lý:
a. Căn cứ vào phạm vi, quyền hạn được uỷ thác người ta chia các đại lý thành:
1. Đại lý toàn quyền (Universal Agent) Là người được phép thay mặt người uỷ thác toàn quyền giải quyết mọi vấn đề.
2. Tổng đại lý (agent general): Là người được uỷ quyền làm một phần việc nhất định của người uỷ thác, ví dụ: Ký kết những hợp đồng thuộc một nghiệp vụ nhất định, như phụ trách một hệ thống đại lý trực thuộc – Các đại lý thứ cấp.
3. Đại lý đặc biệt (Special Agent): Là người được uỷ thác chỉ làm một việc cụ thể, ví dụ như mua một loại máy móc hay thiết bị nào đó, chẳng hạn máy tiện, với một giá nhất định.
b. Căn cứ vào nội dung quan hệ giữa người đại lý với người uỷ thác, người ta chia thành các loại đại lý:
1.1. Đại lý thụ uỷ (mandatory): Là người được chỉ định để hành động thay cho người uỷ thác, với danh nghĩa và chi phí của người uỷ thác. Thù lao của người đại lý có thể là một khoản tiền hoặc một mức phần trăm tính trên kim ngạch của công việc
1.2. Đại lý hoa hồng (Commision Agent): Là người đại lý được uỷ thác tiến hành hoạt động với danh nghĩa của mình, nhưng với chi phí của người uỷ thác và được nhận tiền thù lao gọi là tiền hoa hồng.
Trên thực tế có nhiều công ty có hàng muốn bán hàng vào một số thị trường nhưng do thủ tục phức tạp nên khó thâm nhập trực tiếp mà phải thông qua một số công ty đại lý ở những thị trường đó. Bằng cách này thì việc thâm nhập thị trường đỡ khó khăn hơn, tiết kiệm được chi phí mở chi nhánh, trường hợp có kiện tụng xảy ra nếu có đại lý là người nước sở tại thì đỡ tốn chi phí hơn rất nhiều.
1.3. Đại lý kinh tiêu (Merchant Agent): Là người kinh doanh tiêu thụ, hoạt động nhân danh mình với chi phí của mình để bán một loại hàng hoá nào đó và được nhận thù lao là mức chênh lệch giá cả giữa giá bán và giá mua.
Trên thị trường thế giới người ta còn gặp một số loại đại lý như sau:
- Phắc tơ (Factor): Là người đại lý được giao quyền chiếm hữu hàng hoá hoặc chứng từ sở hữu hàng hoá, được phép đứng tên của họ bán hàng hay cầm cố hàng hoá với giá cả mà họ cho là có lợi nhất cho người uỷ thác, được trực tiếp nhận tiền hàng từ người mua hàng.
- Đại lý gửi bán (Consignee or Agent Carrying Stock): Là người đại lý được uỷ thác bán ra, với danh nghĩa của họ và chi phí do người uỷ thác chịu, những hàng hoá do người uỷ thác giao cho để bán ra từ kho của người đại lý.
- Đại lý bảo đảm thanh toán: Là người đại lý đứng ra bảo đảm sẽ bồi thường cho người uỷ thác nếu người mua hàng (người thứ ba) ký kết hợp đồng với mình không thanh toán tiền hàng.
- Đại lý độc quyền (Sole Agent, Exclusive Agent) là người đại lý duy nhất cho một người uỷ thác để thực hiện một hành vi nào đó như bán hàng, mua hàng, thuê tầu v.v.tại một khu vực và trong một thời gian do hợp đồng quy định. Nếu trên thị trường đã ký một hợp đồng đại lý độc quyền thì bên uỷ thác mất quyền bán trực tiếp cho người khác, nếu đã bán thì phải trả phần chênh lệch đã quy định cho đại lý độc quyền.
c. Căn cứ vào nghiệp vụ người ta chia các đại lý thành.
- Đại lý xuất khẩu (bán)
- Đại lý nhập khẩu (mua)
- Đại lý xuất nhập khẩu ( vừa mua vừa bán)
- Hợp đồng đại lý (Luật Thương mại Việt Nam điều 168)
Nội dung phải theo quy định của pháp luật
Khi ký hợp đồng cần phải lưu ý:
1. Về điều khoản thời gian hiệu lực của hợp đồng phải quy định rõ ràng thời gian thực hiện và hoàn thành công việc, đây chính là cơ sở để thanh phí đại lý.
2. Về vấn đề địa dư : Phải quy định địa dư bán hàng, không được đem hàng từ địa phương này sang bán ở địa phương khác nếu như không được phép của người uỷ thác, vì theo chính sách thâm nhập thị trường hàng hoá gửi bán ở các địa phương khác nhau có chính sách ưu đãi khác nhau, có giá khác nhau.
3. Về vấn đề quyền hạn của đại lý : Phải xác định phạm vi quyền hạn của đại lý, chẳng hạn có được nâng giá hay giảm giá không?
4. Vấn đề xác định giá:
- Xác định giá sàn: giá thấp nhất có thể hạ còn nâng giá tuỳ ý.
- Xác định giá trần: Giá cao tối đa có thể bán còn giá thấp tuỳ ý.
- Xác định khung giá : Xác định giới hạn dao động của giá mà người đại lý có thể sử dụng, tức là chỉ được mua hoặc bán trong giới hạn giá này.
5. Vấn đề phí uỷ thác và các loại phí có liên quan .
Phí đại lý chính là công của người đại lý, do vậy cần phải thoả thuận công cho rõ ràng, phù hợp và khi xác định phí này thì cần phải căn cứ vào:
+ Khối lượng công việc của người đại lý
+ Thời gian hoàn thành công việc – thời gian càng ngắn thì phí càng cao.
+ Địa dư: càng khó khăn (tức là khó thâm nhập, khó cạnh tranh) thì phí càng cao.
+ Uy tín: Uy tín của người làm đại lý càng cao thì phí càng cao.
* Cách tính công đại lý
+ Có thể tính thành tiền cụ thể
+ Có thể tính bằng %
* Chi phí của đại lý còn bao gồm:
+ Chi phí trực tiếp: Trả tiền quảng cáo, mua bảo hiểm hàng hoá.v.v.
+ Chi phí gián tiếp: Chi phí cho các dịch vụ phục vụ cho việc mua, bán hàng hoá.
Hai loại chi phí này có thể tính riêng nhưng thông thường người ta hay tính gộp.
6. Thanh toán: Phải quy định cụ thể:
+ Thời gian thanh toán
+ Phương thức thanh toán
+ Số tiền thanh toán từng lần
* Tiền thanh toán có thể phân loại như sau:
+ Tiền ứng trước.
+ Thanh toán cho tiến trình thực hiện công việc.
+ Thanh toán sau khi hoàn thành công việc, số tiền này được dùng để khống chế người làm đại lý.
c. Lựa chọn trung gian (Sử dụng đại lý và môi giới)
1. Lựa chọn: Người trung gian phải thoả mãn các điều kiện:
+ Am hiểu nghiệp vụ, có nghĩa là phải nắm vững thông tin về thị trường và các thông tin có liên quan đến thị trường.
+ Người trung gian phải có khả năng tài chính, có cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ thực hiện công việc có hiệu quả .
+ Người trung gian phải có uy tín.
2. Vấn đề sử dụng trung gian ở Việt Nam
Theo quy định hiện hành khi làm đại lý cho người nước ngoài phải thoả mãn các điều kiện sau:
+ Tất cả thương nhân Việt Nam đều được phép làm đại lý cho người nước ngoài.
+ Đối với những hàng hoá cấm xuất nhập khẩu phải có giấy phép của nhà nước (ví dụ: mua bán vũ khí, chất nổ).
+ Những hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện phải có giấy phép của Bộ Thương mại và các Bộ quản lý chuyên ngành có liên quan.
+ Phải có khả năng thực hiện nhiệm vụ được uỷ thác.
+ Phải mở tài khoản riêng cho hàng đại lý.
+ Nếu làm đại lý mua hàng cho người nước ngoài thì phải có giấy chứng nhận là phía nước ngoài đã chuyển tiền vào Việt Nam, giấy này do ngân hàng cấp và hải quan sẽ kiểm tra khi làm thủ tục xuất khẩu.
+ Người đại lý phải thay mặt người uỷ thác nộp tất cả các khoản thuế theo quy định của Việt Nam.
Phải dự kiến trường hợp trả lại hàng và quy định điều khoản này trong hợp đồng và hàng trả lại phải phù hợp với quy cách, chất lượng lúc xuất đi.
0 comments:
Đăng nhận xét